Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (Ảnh tư liệu).
Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (Ảnh tư liệu).
Một là, tích cực, chủ động nghiên cứu nắm chắc diễn biến tình hình, xác định đúng đắn thời cơ cách mạng để tiến hành tổng khởi nghĩa. Đầu năm 1945, tình thế cách mạng thế giới có sự chuyển biến mau lẹ, chiến tranh thế giới lần thứ Hai đến giai đoạn kết thúc với thắng lợi trên chiến trường thuộc về Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh. Nửa cuối tháng 4/1945, Liên xô tiến hành tổng công kích vào Béc-lin, buộc phát xít Đức phải ký văn bản đầu hàng vô điều kiện (09/5/1945). Trên đà thắng lợi, ngày 08/8/1945, Liên Xô tuyên chiến và đánh bại đội quân Quan Đông hùng mạnh nhất của phát xít Nhật, khiến thành viên cuối cùng trong trục phát xít phải chịu khuất phục, đầu hàng vô điều kiện (14/8/1945).
Trong nước, dưới ách thống trị hà khắc, tàn bạo của thực dân, phong kiến, nhất là kể từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương thực thi những chính sách vô nhân đạo phục vụ chiến tranh, gây ra nạn đói khắp cả nước, đẩy quần chúng nhân dân lao động vào cùng cực, không thể chịu đựng được, phải vùng lên đấu tranh để tự cứu mình. Sau các sự kiện Nhật đảo chính Pháp và Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện; quân Nhật, chế độ phong kiến và chính quyền bù nhìn, phản động rơi vào hoang mang, khủng hoảng tột độ, không đủ khả năng đàn áp phong trào cách mạng. Trong khi đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh không ngừng lớn mạnh, phát triển rộng khắp trong cả nước, quy tụ, đoàn kết đông đảo tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái… đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Đánh giá về tình hình lúc bấy giờ, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: “Cả Đông Dương lúc ấy đang như một cánh đồng cỏ khô. Từng tập, từng tập bản chỉ thị của Ban Thường vụ nhanh chóng theo chân các đồng chí giao thông bay đến các miền đất nước như những cánh chim lửa. Và lửa cách mạng đã bùng lên! Không có ai dập được, không có lực lượng phản động nào, không có sức mạnh tàn bạo nào ngăn cản được ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy trong cả nước”(1). Đến tháng 8/1945, nhận thấy những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân đồng minh vào Đông Dương (từ 14/8 đến 05/9/1945), với quyết tâm dù có phải hi sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành độc lập cho dân tộc.
Hai là, kịp thời xác định chủ trương, quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tiến hành tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trong thời gian rất ngắn. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh đã nắm chắc diễn biến tình hình và thời cơ cách mạng, kịp thời ban hành chủ trương, quyết sách để lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa, như: Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ; Chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp; chuyển căn cứ chỉ đạo cách mạng từ Pác Bó về Tân Trào; xác định các nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa, v.v.. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động của tổ chức Việt Minh các cấp; chuyển mọi hình thức tuyên truyền cổ động, tổ chức và đấu tranh sang thời kỳ tiền khởi nghĩa, tiến dần từng bước lên tổng khởi nghĩa; tiến hành những hình thức biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, bất hợp tác với Nhật; xây dựng các đội Tự vệ cứu quốc, phát động đánh du kích, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam Giải phóng quân; tổ chức các ủy ban khởi nghĩa, v.v.. Trước khi quân Nhật tuyên bố đầu hàng một ngày (13/8/1945), Trung ương Đảng và Tổng Bộ Việt Minh tổ chức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách; và ngay trong ngày hôm đó, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1, ban Lệnh Tổng khởi nghĩa. Tại Đại hội quốc dân (16/8/1945) đã thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, quốc ca là bài tiến quân ca; thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Bác Hồ làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2).
Những chủ trương, quyết sách trên là sợi chỉ đỏ thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và quốc dân, đồng bào tranh thủ thời gian, chớp lấy thời cơ, nhất tề đứng lên, tiến hành Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi trên phạm vi cả nước chỉ trong 2 tuần (từ ngày 14 - 28/8/1945). Các sự kiện thành lập, thông qua danh sách thành viên Chính phủ lâm thời (28, 29/8/1945) và vua Bảo Đại thoái vị (30/8/1945) đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân, phong kiến; ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Ba là, kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, linh hoạt đấu tranh đẩy lùi nguy cơ, thách thức bảo vệ thành quả cách mạng. Tuy đất nước giành được độc lập, nhưng chúng ta phải đối mặt với muôn vàn nguy cơ, thách thức, khó khăn. Quân tưởng mang theo “Việt Quốc”, “Việt Cách” kéo vào với những yêu cầu phi lý và mục tiêu “diệt cộng, cầm Hồ”; thực dân Pháp núp bóng quân Anh với dã tâm cướp nước ta một lần nữa; quốc khố trống rỗng, nạn đói, nạn mù chữ…. đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chính quyền cách mạng non trẻ, đặt vận nước vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trước tình thế đó, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quyết sách thể hiện tư duy nhạy bén, sáng tạo và tầm nhìn chiến lược, như: Cải tổ Ủy ban giải phóng dân tộc thành Chính phủ lâm thời; công khai danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời trước khi Vua Bảo Đại thoái vị; ra mắt Chính phủ lâm thời, công bố Tuyên ngôn độc lập trước khi quân đồng minh kéo vào; mở rộng, cải tổ Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời; Đảng ta rút vào hoạt động bí mật; xác định kẻ thù chính của cách mạng là thực dân pháp, v.v.. Đây là cơ sở để chúng ta triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp cấp bách để củng cố, bảo vệ thành quả cách mạng.
Về đối nội, chúng ta đã có sự điều chỉnh, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp, chấp thuận một số đại biểu của “Việt quốc”, “Việt cách” tham gia Chính phủ để hạn chế sự chống phá của chúng và sự can thiệp của quân Tưởng vào công việc nội bộ; đồng thời, kiên quyết trừng trị bọn phản quốc dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng, nhằm ổn định tình hình. Đặt nhiệm vụ diệt “giặc đói”, “giặc dốt” ngang bằng với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, coi đây là những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, trước mắt. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, kêu gọi người tài đức tham gia Chính phủ và chính quyền các cấp; phát động nhiều phong trào hành động cách mạng, như: Đẩy mạnh tăng gia, sản xuất, tiết kiệm; hũ gạo cứu đói; tuần lễ vàng; bình dân học vụ, v.v..
Về đối ngoại, tuy xác định thực dân Pháp là kẻ thù trực tiếp của cách mạng Việt Nam, nhưng chúng ta tạm thời thực hiện chính sách hòa hoãn, cho quân Pháp ra miền Bắc nhằm tránh cùng một lúc phải đấu tranh với nhiều kẻ thù, bảo toàn lực lượng, củng cố chính quyền cách mạng và sớm gạt quân Tưởng, loại bỏ tay sai của chúng ra khỏi đất nước. Thực hiện chính sách Hoa - Việt thân thiện và những nhượng bộ nhất định với quân Tưởng, nhưng tỉnh táo không mắc mưu khiêu khích và âm mưu đảo chính của chúng.
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÂU SẮC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và giữ vững thành cách mạng tháng Tám năm 1945 được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong suốt quát trình đấu tranh cách mạng, nhất là ở những giai đoạn, thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt; trở thành nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện nhiệm vụ quốc tế, tiến hành chiến tranh bảo vệ biên giới của Tổ quốc, đưa cả nước vững bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng bài học đó trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo tình hình tác động đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tỉnh táo, linh hoạt, sáng tạo để nhận định, đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước; kết hợp dự báo chiến lược với dự báo ngắn hạn về xu hướng vận động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…. nhằm nắm vững chủ động chiến lược. Phân tích khách quan, khoa học xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đất nước gắn với nắm vững xu hướng điều chỉnh quan hệ chiến lược của các nước lớn; diễn biến tình hình các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột vũ trang, bất ổn, các yếu tố đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh, v.v.. Linh hoạt nhận định và dự báo đúng xu hướng vận động của đối tác, đối tượng và sự chuyển hóa giữa chúng trong từng đối tác, đối tượng cụ thể, theo phương châm thêm bạn, bớt thù, tạo thời cơ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các nguy cơ đe dọa đến mục tiêu, nội dung nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trên cơ sở đó, nhận định, đánh giá những thời cơ, vận hội và trở ngại, thách thức, khó khăn trực tiếp tác động đến thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Mít tinh Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (19/8/1945). Ảnh tư liệu
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Không ngừng củng cố, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nghiêm chủ trương, quan điểm bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Kết hợp chặt chẽ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng… với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chiến lược khác đã được Trung ương Đảng và Bộ Chính trị ban hành. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách kết hợp giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh và tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Gắn kết vận dụng kết quả tổng kết Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với triển khai thực hiện quan điểm về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, xây dựng “thế trận lòng dân”… trong hoạch định, chủ trương, đường lối và ban hành chính sách, pháp luật về bảo vệ Tổ quốc.
Triển khai quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo trong cuốn sách "Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách là tài liệu quý, thể hiện sự am hiểu sâu sắc, tư duy ở tầm chiến lược của người đứng đầu Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng Việt Nam; trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam và bằng nhãn quan chính trị sắc bén, những kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn cách mạng. Những quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư là định hướng quan trọng để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, đồng thời thể hiện sự lãnh đạo sâu sát, toàn diện đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, xứng đáng là thanh bảo kiếm sắc bén, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại trong củng cố, bảo vệ thành tựu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của cả hệ thống chính trị; kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,… tạo tiềm lực, sức mạnh tổng hợp cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Gắn tăng cường, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân nhân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” với xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Xây dựng khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự, bảo đảm mỗi xã là một căn cứ chiến đấu, mỗi huyện, tỉnh là một khu vực phòng thủ vững chắc và “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ….; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước”(3). Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng gắn với xử lý khéo léo mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng theo đúng tinh thần chỉ đạo: “Không ngừng đổi mới, sáng tạo trên cơ sở vận dụng nhuần nhuyễn bài học “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt về phương pháp, sách lược”(4) của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhằm phát huy vị trí địa chiến lược và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước trong bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc “từ sớm, từ xa”.
Đồng thời, không ngừng củng cố, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; khơi dậy khát vọng cống hiến, đổi mới, sáng tạo; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc… để mỗi người dân thực là chủ thể tích cực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
Đại tá, TS Thái Doãn Tước Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam Trung tá, ThS Thái Doãn Hùng Trường Sĩ quan Pháo binh
(1) Dẫn theo Đài Truyền hình Việt Nam (2020), Phim tài liệu Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh - Biên niên sử Truyền hình năm 1945.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2011, tập 3, tr. 596.
(3) ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập I, tr 159, 201.
(4) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr 191-192.
Những bước ngoặt lịch sử vĩ đại
Cách mạng Tháng Mười thành công đã tạo nên những bước ngoặt lịch sử vĩ đại.
Trước hết, đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh đế quốc và giải phóng nước Nga khỏi “nhà tù của các dân tộc”. Sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, Nhà nước Xô viết đã sớm thông qua các văn kiện pháp lý và bảo đảm trên thực tế quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng và quyền được sống trong hòa bình của tất cả các dân tộc sinh sống trên đất nước Nga; trên cơ sở đó, thiết lập và củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc. Chính quyền Xô viết tạo điều kiện cho hơn một trăm triệu người lao động thuộc mọi dân tộc từng bị áp bức, bị bóc lột đứng lên thực hiện vai trò làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình.
Tiếp đó, khai sinh một chế độ chính trị - xã hội kiểu mới, khác về chất so với tất cả các chế độ chính trị - xã hội đã và đang tồn tại đến lúc đó trên thế giới. Nhà nước Xô viết là nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, giai cấp vô sản Nga, với đội tiên phong là Đảng Bôn-sê-vích, lần đầu tiên trở thành giai cấp cầm quyền. Nhà nước Xô viết thủ tiêu quyền tư hữu đối với những tư liệu sản xuất cơ bản; đặt nền tảng xây dựng một xã hội mới có mục tiêu tối thượng là đưa lại hòa bình, an ninh, ấm no và công bằng cho tất cả mọi người; xác lập trên thực tế một nền dân chủ cho số đông, bảo đảm lợi ích và quyền lực thực sự của người lao động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy đã khơi dậy, phát huy mạnh mẽ sức mạnh, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân.
Cách mạng Tháng Mười cũng đặt nền móng tạo dựng và gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới hùng mạnh, đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như có vai trò, vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Nhà nước Xô viết thay đổi triệt để các nguyên tắc đối ngoại, lấy chủ nghĩa quốc tế vô sản thay thế chủ nghĩa dân tộc tư sản vị kỷ, đồng thời kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại vì hòa bình.
Một là, đánh dấu bước chuyển biến về chất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành hiện thực, và hiện thực đó minh chứng cho bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cũng như sự đúng đắn của phép biện chứng duy vật. Thành công của Cách mạng Tháng Mười là kết quả hợp quy luật của sự phát triển lý luận và thực tiễn đấu tranh qua nhiều thế kỷ của nhân dân lao động trên toàn thế giới; đáp ứng khát vọng lâu đời về tự do và giải phóng con người của nhân loại; cung cấp những bài học lịch sử vô giá về lý luận và thực tiễn cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Hai là, chấm dứt thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản trong nền kinh tế - chính trị thế giới, mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười khởi nguồn và dẫn tới bước chuyển biến mới của phong trào cách mạng thế giới về nội dung, đường lối và phương pháp phát triển, làm thay đổi căn bản tiến trình lịch sử thế giới theo hướng tích cực: Các đảng mác-xít lê-nin-nít ra đời ở hàng chục quốc gia; Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập (tháng 3-1919), đã dần loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, giúp các đảng cộng sản vững mạnh hơn về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đồng thời hậu thuẫn mạnh mẽ cho phong trào cách mạng tại nhiều nước. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới, đóng vai trò đối trọng với chủ nghĩa tư bản. Gần cuối thế kỷ XX, chủ yếu do những nguyên nhân nội tại(1), mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nhưng sự biến đổi đó không làm thay đổi tính chất quá độ của thời đại, vì đây là quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại.
Ba là, mở đường và khai sáng cho kỷ nguyên mới của phát triển và tiến bộ xã hội. Hạn chế lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đặt nhân loại trước một thách thức chung là tìm con đường giải phóng khỏi chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Cách mạng Tháng Mười đáp ứng những yêu cầu lịch sử cấp bách đó, tìm kiếm và khai phá một con đường chưa từng có để nhân loại thực hiện mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội; cổ vũ cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội ở cả các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản đã phải tiếp thu một số mặt ưu việt của chủ nghĩa xã hội để điều chỉnh và thích nghi với thời đại, song không thay đổi bản chất bóc lột, áp bức, bất công.
Bốn là, cổ vũ, tạo động lực, giúp đỡ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành quyền tự do, quyền làm chủ vận mệnh của mình, quyền bình đẳng trong cộng đồng quốc tế của nhân dân Á - Phi - Mỹ La-tinh đã trở thành một cao trào cách mạng chưa từng có. Kết quả là trong nửa sau thế kỷ XX, hơn 100 nước thuộc địa trở thành những quốc gia độc lập, có chủ quyền, chủ thể pháp lý quốc tế. Hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa thực dân, đế quốc thiết lập trong suốt 5 thế kỷ hoàn toàn sụp đổ.
Năm là, khai sinh và đấu tranh cho một kiểu quan hệ quốc tế hoàn toàn mới, theo những nguyên tắc phản ánh bản chất của chế độ Xô viết: 1- Hòa bình và hữu nghị; chống chính sách xâm lược và chiến tranh đế quốc; 2- Dân chủ, công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa tất cả các quốc gia - dân tộc; 3- Cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin trong tiến trình Cách mạng Tháng Mười
Vấn đề dân tộc chiếm vị trí rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng vô sản của V.I. Lê-nin. Người dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc trước hết bắt nguồn từ thực tiễn của nước Nga và thế giới, đó là: 1- Sự áp bức dân tộc bằng bạo lực của dân tộc Đại Nga đối với các “dị tộc” đang rất phổ biến ở nước Nga Sa hoàng; 2- Trong hai thập niên đầu thế kỷ XX, những cuộc tranh luận về vấn đề dân tộc trong phong trào dân chủ - xã hội ở Nga và châu Âu diễn ra gay gắt; 3- Chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã và đang thực hiện chủ nghĩa dân tộc tư sản, chính sách xâm chiếm thuộc địa, áp bức, nô dịch, gây hằn thù dân tộc trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, từ rất lâu trước Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu vấn đề dân tộc ở cả nước Nga cũng như ở các nước và dân tộc thuộc địa có liên quan mật thiết đến cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp của Đảng Bôn-sê-vích chống chủ nghĩa cơ hội và các thế lực thực dân, đế quốc trong vấn đề này. Đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản, V.I. Lê-nin đã vận dụng và phát triển tư tưởng mác-xít về giai cấp - dân tộc, đặc biệt bám sát quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm thực tiễn khi luận chứng, luận giải và đề xuất chính sách giải quyết vấn đề dân tộc ở nước Nga nói riêng, trên thế giới nói chung. Về tổng thể, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin nhằm bảo vệ, củng cố quan điểm của Đảng Bôn-sê-vích, của chủ nghĩa quốc tế vô sản; phản bác các quan điểm, chính sách của giai cấp tư sản, của các trào lưu cơ hội chủ nghĩa ở Nga và trên thế giới về vấn đề dân tộc; đặc biệt nhằm giáo dục đảng viên của Đảng Bôn-sê-vích và giác ngộ quần chúng nhân dân Nga, để từ đó họ tin tưởng và tự giác đi theo đường lối đúng đắn của Đảng. Những mục tiêu này thể hiện rất rõ trong nhiều tác phẩm của V.I. Lê-nin, như: “Về cương lĩnh dân tộc của Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga” (năm 1913), “Về quyền dân tộc tự quyết” (năm 1914), “Vấn đề hòa bình” (năm 1915), “Cách mạng xã hội chủ nghĩa và quyền dân tộc tự quyết” (năm 1916), “Báo cáo về hòa bình” (năm 1917), “Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột” (năm 1918), “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” (năm 1920),... Theo đó, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin bao hàm ba nội dung chính sau:
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Vấn đề này được V.I. Lê-nin đặt ra trong một quốc gia đa dân tộc, cũng như giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới. V.I. Lê-nin đã luận chứng sắc sảo và thuyết phục cho những luận điểm sau: “toàn bộ lịch sử của tư bản là một lịch sử đầy những sự tàn bạo và cướp đoạt, đầy máu và bùn nhơ”; “Lối lừa bịp nhân dân, mà giai cấp tư sản thực hành rộng rãi nhất trong cuộc chiến tranh này, là lấy tư tưởng “giải phóng dân tộc” để ngụy trang cho những mục đích cướp bóc của nó”(2); “đối với giai cấp tư sản thì yêu sách về quyền bình đẳng dân tộc trên thực tế thường là sự tuyên truyền cho tính bản vị dân tộc và chủ nghĩa sô-vanh”(3). Người kết luận: Chính sách dân tộc của giai cấp tư sản thực chất là đặc quyền đặc lợi(4); là áp bức, bóc lột, nô dịch(5); là chia rẽ dân tộc, chia rẽ giai cấp vô sản(6); do đó, “khả năng chung sống hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa” chỉ là ảo tưởng(7); và Người khẳng định: “Ngày nay chỉ có giai cấp vô sản mới bảo vệ quyền tự do thực sự của các dân tộc và sự thống nhất của công nhân thuộc mọi dân tộc”(8). “Nhưng muốn cho cách mạng vô sản thắng lợi, thì phải giáo dục lâu dài cho công nhân tinh thần bình đẳng và hữu nghị dân tộc đầy đủ nhất”(9). V.I. Lê-nin khẳng định: Chỉ có chế độ Xô viết là chế độ thật sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc(10); thực hiện quyền bình đẳng dân tộc là để loại trừ mọi sự hiềm nghi, mọi xu hướng, biệt lập, mọi sự nghi kỵ, mọi sự thù hằn nhỏ nhặt nhất giữa các dân tộc(11); quyền bình đẳng dân tộc phải được bảo đảm bằng pháp luật và gắn với việc bảo vệ vô điều kiện các quyền lợi của mọi dân tộc ít người(12). Tóm lại, bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng không phải là bình quân chủ nghĩa, hơn thế cần có sự ưu tiên đối với các dân tộc kém phát triển hơn. V.I. Lê-nin chỉ rõ, chỉ như vậy mới tạo được cơ sở thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp vô sản trong từng nước và trên thế giới.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. V.I. Lê-nin xác định, đây là quyền tự quyết về chính trị; quyền phân lập của dân tộc đó khỏi tập thể dân tộc khác; quyền thành lập quốc gia - dân tộc độc lập; quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn trái ngược tư tưởng ly khai và chủ nghĩa biệt lập. “Do kinh nghiệm hàng ngày của mình, quần chúng nhân dân biết rất rõ tầm quan trọng của những quan hệ địa lý và kinh tế, những lợi thế của một thị trường rộng lớn và của một quốc gia rộng lớn nên họ chỉ nghĩ đến phân lập khi sự áp bức dân tộc và những xung đột dân tộc làm cho cuộc sống chung trở thành tuyệt đối không thể chịu đựng được và làm cho mọi thứ quan hệ kinh tế bị trở ngại”(13). V.I. Lê-nin chỉ rõ, “quyền tự quyết được thực hiện bằng một cuộc trưng cầu ý kiến của toàn thể dân cư trong lãnh thổ muốn quyết định vận mệnh của mình”(14). Luận điểm này có nghĩa là quyền dân tộc tự quyết không thể được quyết định bởi một thế lực cầm quyền hay một phe nhóm nào đó, một khi lợi ích và mưu đồ của những thế lực này không phản ánh lợi ích và ý nguyện của đại đa số nhân dân thuộc quốc gia hay dân tộc đó. Trong quan hệ quốc tế, một quốc gia - dân tộc có quyền tự quyết đường hướng đối ngoại của mình, song đường hướng đó nhất thiết không được phương hại đến lợi ích quốc gia chính đáng của quốc gia - dân tộc khác.
Ba là, liên hợp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng, nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin, phản ánh bản chất, chính sách quốc tế của Quốc tế cộng sản, tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong đó, V.I. Lê-nin khẳng định, nếu giai cấp tư sản thi hành chính sách chia rẽ, gây hằn thù dân tộc, thì “chủ nghĩa quốc tế vô sản tuyệt đối không dung hòa với lập trường đó vì chủ nghĩa quốc tế tuyên truyền không những cho sự gần gũi giữa các dân tộc, mà cho cả sự liên hợp của công nhân thuộc tất cả các dân tộc ở một quốc gia trong những tổ chức thống nhất của giai cấp vô sản”(15). V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có sự chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”(16). Từ đó, V.I. Lê-nin phát triển khẩu hiệu Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại! thành Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại! Khẩu hiệu này đã thật sự trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của giai cấp vô sản và các dân tộc khác nhau ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Hiện thực hóa chính sách dân tộc
Đối với các dân tộc trên đất nước Nga, bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc Nga” (công bố ngày 15-11-1917) đã xác định những nguyên tắc pháp lý cơ bản của vấn đề dân tộc; tuyên bố giải phóng cho các dân tộc bị nước Nga Sa hoàng áp bức, nô dịch, thôn tính, trong đó có quyền tự quyết. Đặc biệt, bản “Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột” (tháng 1-1918) do V.I. Lê-nin soạn thảo hoàn chỉnh hơn, đã trở thành cơ sở cho bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xô viết (tháng 7-1918). Nhờ sớm thực hiện chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin mà ngay trong những năm 1918 - 1921, khi kẻ thù bên trong cấu kết với liên quân 14 nước đế quốc tấn công nước Nga, Nhà nước Xô viết non trẻ vẫn tập hợp được một lực lượng hùng hậu thuộc các dân tộc khác nhau để đánh bại thù trong, giặc ngoài và bảo vệ được chính thể Xô viết.
Trong khi đấu tranh cho quyền dân tộc tự quyết, V.I. Lê-nin đồng thời nhấn mạnh, lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội và phòng thủ đất nước đòi hỏi các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa. Từ đó, “Cộng hòa Xô viết Nga(17) được thiết lập trên cơ sở liên minh tự do của các dân tộc tự do thành liên bang các cộng hòa dân tộc Xô viết”(18), sau đó các nước Cộng hòa Xô viết(19) liên kết thành Liên bang Xô-viết. Nhưng V.I. Lê-nin phản bác chủ trương “tự trị hóa”(20) của I. V. Xta-lin, đưa ra quan điểm khác về Nhà nước liên bang, đó là: “chúng ta... không thủ tiêu nền độc lập của họ, mà còn lập nên một tầng nhà mới, một liên bang các nước cộng hòa bình quyền”(21); “chỉ duy trì liên bang các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô-viết về phương diện quân sự và ngoại giao, còn về tất cả các phương diện khác đều khôi phục lại quyền độc lập hoàn toàn của các bộ dân ủy riêng biệt”(22). Có thể nói, sự thành lập Liên Xô năm 1922 là thắng lợi của chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân loại tiến bộ được chứng kiến một phương sách giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là thủ tiêu mọi bất bình đẳng dân tộc, tạo nền tảng xây dựng một cộng đồng gắn kết như anh em giữa các dân tộc trong một quốc gia. Trên thực tế, sự thành lập Liên Xô đã làm gia tăng rõ rệt sức mạnh tổng hợp quốc gia; hàng chục triệu người thuộc mọi dân tộc ở Liên Xô đã sát cánh cùng Đảng Cộng sản để chiến đấu và chiến thắng trong cuộc Chiến tranh vệ quốc 1941 - 1945 và trong công cuộc xây dựng đất nước hùng cường. Đáng tiếc là về sau, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin không được giới lãnh đạo Liên Xô tuân thủ. Những sai lầm kéo dài trong chính sách dân tộc và việc Mỹ ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là hai trong những nguyên nhân dẫn đến sự giải thể của Liên Xô, để lại những bài học đau đớn(23).
Trên trường quốc tế, bản “Sắc lệnh về hòa bình” do V.I. Lê-nin soạn thảo (thông qua ngày 8-11-1917) nhằm thiết lập một nền hòa bình thực sự cho nhân loại. Bản sắc lệnh này đã đi vào lịch sử không chỉ là văn kiện đối ngoại đầu tiên của Nhà nước Xô viết, mà còn được coi như một cuộc cách mạng trên lĩnh vực quan hệ quốc tế và ngoại giao(24). Trên thực tế, Liên Xô là quốc gia khởi xướng, đi đầu và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì hòa bình và an ninh thế giới. Nhà nước Xô viết và Quốc tế Cộng sản cũng đã đóng vai trò then chốt trong việc giúp đỡ, hỗ trợ thành công phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa để thế kỷ XX trở thành “Thế kỷ giải phóng”. Đồng thời, bằng nhiều phương sách và hành động cụ thể, thiết thực, Liên Xô vừa kiên quyết đấu tranh chống “chủ nghĩa thực dân mới” nhằm bảo vệ quyền bình đẳng, quyền tự quyết của các nước mới giành được độc lập dân tộc, vừa giúp đỡ các nước này nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Mười đã tạo ra những bước ngoặt lịch sử không thể phủ nhận, tạo cơ sở vững chắc cho nhận định: Đây là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để nhất, có giá trị nhân đạo, nhân văn nhất trong tất cả các cuộc cách mạng từng diễn ra trong lịch sử thế giới; là sự kiện chính trị - xã hội vĩ đại nhất trong thế kỷ XX, có ảnh hưởng lớn nhất đến tiến trình lịch sử thế giới hiện đại. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từng khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”(25); “Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(26). Còn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin đã xác lập dấu ấn đậm nét trong hầu như tất cả những bước ngoặt vĩ đại mà Cách mạng Tháng Mười đã tạo ra trên bình diện quốc gia và quốc tế, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả lý luận lẫn thực tiễn là tư tưởng giải phóng con người và đặt con người ở vị trí trung tâm trong mọi chính sách đối nội, đối ngoại của đảng cầm quyền. Và nếu như C. Mác khẳng định: “Tất cả cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ”(27), thì luận điểm sau của V.I. Lê-nin đến nay vẫn mang tính thuyết phục rất cao và tính thời sự cấp thiết: “Kinh nghiệm của chúng tôi cho phép chúng tôi tin tưởng sắt đá rằng chỉ có một sự quan tâm lớn lao đến lợi ích của các dân tộc khác nhau thì mới loại trừ được nguồn gốc của mọi sự xung đột, mới trừ bỏ được lòng nghi ngờ lẫn nhau, mới trừ bỏ được nguy cơ gây ra những mưu đồ nào đó, mới tạo ra được lòng tin, nhất là lòng tin của công nhân và nông dân không nói cùng một thứ tiếng; nếu không có lòng tin đó thì những quan hệ hòa bình giữa các dân tộc cũng như sự phát triển thuận lợi đôi chút của tất cả những gì là quý báu trong nền văn minh hiện đại, đều tuyệt đối không thể có được”(28). Thật vậy, nếu các quốc gia - dân tộc không tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, thì không thể tạo dựng được lòng tin, mà thiếu lòng tin thì không tránh khỏi xung đột, thậm chí chiến tranh(29). Vậy mà hiện tại, một số nước lớn vẫn áp dụng tiêu chuẩn kép trong quan hệ quốc tế, áp đặt giá trị, đồng thời thực thi chính sách cường quyền, cấm vận đơn phương, theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vị kỷ... Trật tự thế giới hiện nay đang bị chi phối bởi những tư tưởng và hành động trên, do vậy khó tạo dựng được niềm tin, khó mang lại hòa bình và an ninh cho cộng đồng quốc tế. Vì vậy, nếu trước đây, “lý luận về dân tộc và dân tộc thuộc địa của V.I. Lê-nin là chỉ dẫn quý báu cho các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc”(30), thì hiện nay, nhân loại tiến bộ có thể lấy lý luận đó làm cơ sở cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và phát triển, dân sinh và dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội thật sự. Nói cách khác, khi thế giới vẫn chứa đầy bất công và nghịch lý, khi nghèo đói, bất bình đẳng và bạo lực đang tước đi quyền được tiếp cận các điều kiện sống cơ bản của hàng chục triệu người, thì những giá trị lý luận và thực tiễn trong chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin càng chứng tỏ sức sống bền bỉ, đặt ra nhiều điều rất cần suy ngẫm. Ngoài ra, khi “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể” được V.I. Lê-nin coi là “bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác”, thì bất cứ ai, khi nghiên cứu hay phán xét bất cứ vấn đề nào (trong đó có vấn đề dân tộc) của một nước, cũng như trong quan hệ quốc tế hiện nay, nếu thật sự muốn tìm ra chân lý thì không thể bỏ qua quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm thực tiễn, bởi đây là cách tiếp cận khoa học, khách quan và không thể thay thế. Tóm lại, thực tiễn thế giới hơn 30 năm qua chứng minh cho luận điểm rằng, chỉ lực lượng xã hội nào mang tinh thần khai sáng, bản chất khoa học, dân chủ và nhân văn như Cách mạng Tháng Mười và chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin mới có khả năng mang lại hòa bình và an ninh lâu dài cho nhân loại.
Đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đường cho học thuyết Mác - Lê-nin thâm nhập vào Việt Nam trong bối cảnh đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX rơi vào khủng hoảng. Nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin, dưới ánh sáng Cách mạng Tháng Mười, đã đưa Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản và tìm ra con đường để cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, Luận cương của V.I. Lê-nin chính là sự khởi nguyên cho sự nghiệp giải phóng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dấn thân trong suốt cuộc đời oanh liệt của mình: Giải phóng dân tộc - Giải phóng giai cấp - Giải phóng con người(31). Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, Việt Nam đã làm nên Cách mạng Tháng Tám, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam một lần nữa đã chứng tỏ tính chất đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tính chất đúng đắn của đường lối mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917 đã vạch ra(32). Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, những luận điểm trong chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin nói riêng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước Việt Nam đã giải quyết vấn đề dân tộc một cách hài hòa, hợp lý, nhờ đó đã thành công trong việc tạo dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, gia tăng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có việc quán triệt sâu sắc hơn nữa chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin là những yêu cầu cấp thiết của đất nước, nhất là trong bối cảnh hiện nay./.
(1) Lê-nin từng cảnh báo: Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta (Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 42, tr. 311) (2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 26, tr.131, 413 (3), (4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 167, 319 (5) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 264; t. 41, tr. 199 (6) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd,; t. 25, tr. 99, 166 (7) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 199 (8) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 193 (9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 132 (10) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 202 (11) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 167 (12) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 266, 399; t. 24, tr. 182 (13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 336 (14) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 145 (15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 167 (16) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 199 (17) Từ tháng 1-1918 là Cộng hòa Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga; từ tháng 6-1990 là Liên bang Nga (18) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 263 (19) Tới năm 1922 trên lãnh thổ trước đây thuộc Nga đã có 6 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết: Nga, U-crai-na, Bê-la-rút, A-déc-bai-gian, Ác-mê-ni-a và Gru-di-a. Đến năm 1940, Liên Xô gồm 15 nước thành viên (20) Chủ trương “tự trị hóa” của I. V. Xta-lin và một số nhà lãnh đạo khác là biến các nước cộng hòa Xô viết thành những nước cộng hòa tự trị trong Cộng hòa Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. V.I. Lê-nin nhận định: Chủ trương này “mang tính chất dân tộc Đại Nga chính cống”; là từ bỏ những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản; không đáp ứng nhiệm vụ củng cố hơn nữa tình hữu nghị giữa các dân tộc Xô viết, cũng như nhiệm vụ làm cho họ cố kết và hợp tác với nhau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. (21), (22) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 249, 413 (23) Xem: Hà Mỹ Hương: “Một số bài học từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1, 2004, tr. 45 – 48 (24) Xem: Hà Mỹ Hương: “Cách mạng Tháng Mười Nga với “Sắc lệnh về hòa bình””, Tạp chí Cộng sản, số 841, tháng 11-2012, tr. 40 - 44 (25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 304 (26) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 387 (27) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 109 (28) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 45, tr. 281 (29) Xem: Hà Mỹ Hương: “Từ Cách mạng Tháng Mười Nga suy ngẫm về bài học xây dựng niềm tin trong nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 829, tháng 11-2011, tr. 98 - 102 (30) Nguyễn Xuân Thắng: “Di sản của V.#I. Lênin - Giá trị lý luận và thực tiễn đối với cách mạng thế giới và Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4-2020, tr. 7 (31) Mạch Quang Thắng: “Ảnh hưởng của Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V. I. Lênin đối với Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2020, tr. 16 (32) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 175