Những Bài Thơ Nổi Tiếng Về Mùa Đông

Những Bài Thơ Nổi Tiếng Về Mùa Đông

Trung Quốc là một trong những cái nôi của thơ ca. Nhắc đến thơ Trung Quốc, người ta thường nghĩ ngay tới thơ Đường với hàng trăm các tác phẩm tiêu biểu. Vậy tại sao thơ Đường tại Trung Quốc lại nổi tiếng như vậy? Và thơ Đường có những bài thơ nào nổi bật? Cùng Hocbongcis,vn tìm hiểu ngay sau đây nhé!

Trung Quốc là một trong những cái nôi của thơ ca. Nhắc đến thơ Trung Quốc, người ta thường nghĩ ngay tới thơ Đường với hàng trăm các tác phẩm tiêu biểu. Vậy tại sao thơ Đường tại Trung Quốc lại nổi tiếng như vậy? Và thơ Đường có những bài thơ nào nổi bật? Cùng Hocbongcis,vn tìm hiểu ngay sau đây nhé!

Một số bài thơ nổi tiếng thời Đường Trung Quốc

Những bạn yêu thích thơ văn Trung Quốc cùng Hocbongcis.vn điểm tên những bài thơ nổi tiếng, hay nhất được tổng hợp dưới đây nhé!

Khói lửa binh đao liền ba tháng,

Thư nhà nhận được đáng vạn ngân.

Tóc bạc như sương càng thưa thớt,

Trường Giang sầu lắng trong lòng,

Đường xa muôn dặm nhớ mong ngày về.

Lá vàng quanh núi bốn bề tung bay.

Trên đây là bài viết giới thiệu về thơ Đường và những bài thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Hi vọng rằng những thông tin trong bài viết này sẽ hữu ích với các bạn. Hocbongcis.vn chúc bạn sớm đặt chân được đến đất nước Trung Hoa!

Những bài thơ Trung Quốc nổi tiếng được truyền qua nhiều thế hệ và từng được giảng dạy trong nhà trường. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng khám phá những bài thơ hay, bất hủ dưới đây.

Bản gốc: 锄禾日当午,汗滴禾下土. 谁知盘中餐,粒粒皆辛苦?

Bản dịch Hán Việt: Sừ hòa nhật đương ngọ, hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan, lạp lạp giai tân khổ

Dịch thơ: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi, bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!

望庐山瀑布: Vọng Lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư) Tác giả:  Lí Bạch

Bản gốc: 日照香炉生紫烟,遥看瀑布挂前川. 飞流直下三千尺,疑是银河落九天.

Bản dịch Hán Việt: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên, Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

Bản dịch thơ của Tương Như: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này Nước bay thẳng tắp ba nghìn thước Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.

静夜思: Tĩnh Dạ Tư (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) Tác giả:  Lí Bạch

Bản gốc: 床前明月光,疑是地上霜. 举头望明月,低头思故乡.

Bản dịch Hán Việt: Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.

Bản dịch thơ của Tương Như: Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương.

黄鹤楼送孟浩然之广陵: Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng Tác giả: Lí Bạch

Bản gốc: 故人西辞黄鹤楼, 烟花三月下阳州. 孤帆远影碧空尽, 惟见长江天际流.

Bản dịch Hán Việt: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Bản dịch thơ của Ngô Tất Tố: Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

Bản gốc: 今夜鄜州月, 闺中只独看. 遥怜小儿女, 未解忆长安. 香雾云鬟湿, 清辉玉臂寒. 何时倚虚幌, 双照泪痕干.

Bản dịch Hán Việt: Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trường An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thì ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can?

Bản dịch thơ của Tản Đà Châu Phu này lúc trăng soi, Buồng the đêm vắng riêng coi một mình. Đoái thương thơ dại đầu xanh, Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau. Sương sa thơm ướt mái đầu, Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong. Bao giờ tựa bức màn không, Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.

Bản gốc: 春望 国破山河在, 城春草木深。 感时花溅泪, 恨别鸟惊心。 烽火连三月, 家书抵万金。 白头搔更短, 浑欲不胜簪。

Bản dịch Hán Việt: Xuân vọng Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm. Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hỏa liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thắng trâm.

Bản dịch thơ Trần Trọng Kim: Nước phá tan, núi sông còn đó, Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu. Cảm thời hoa rỏ dòng châu Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng. Ba tháng khói lửa ròng không ngớt, Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn. Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun, Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

Bản gốc: 思归 长江悲已滞, 万里念将归。 况属高风晚, 山山黄叶飞。

Bản dịch Hán Việt: Tư quy Trường Giang bi dĩ trệ, Vạn lý niệm tương quy. Huống thuộc cao phong vãn, Sơn sơn hoàng diệp phi.

Dịch thơ: Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang, Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về. Huống hồ đương lúc cuối thu, Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp.

回乡偶书: Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhan buổi mới về quê) Tác giả: Hà Chí Trương

Bản gốc: 少 小 离 家 老 大 回, 乡 音 无 改 鬓 毛 衰. 儿 童 相 见 不 相 识, 笑 问 客 从 何 处 来.

Bản dịch Hán Việt: Thiếu tiểu li gia lão đại hồi Hương âm vô cải mấn mao tồi Nhi đồng tương kiến bất tương thức Tiếu Vấn Khách Tòng Hà Xử Lai.

Bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ: Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao Trẻ con nhìn lạ không chào, Hỏi rằng khách ở chốn nào tới đây.

枫桥夜泊: Phong Kiều Dạ Bạc Tác giả: Trương Kế

Bản gốc: 月落乌啼霜满天 江枫鱼火对愁眠 姑苏城外寒山寺 夜半钟声到客船

Bản dịch Hán Việt: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh Trăng tà chiếc quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

黄鹤楼: Hoàng Hạc Lâu Tác giả: Thôi Hiệu

Bản gốc: 昔人已乘黄鹤去, 此地空余黄鹤楼. 黄鹤一去不复返, 白云千载空悠悠. 晴川历历汉阳树, 芳草萋萋鹦鹉洲. 日暮乡关何处是, 烟波江上使人愁

Bản dịch Hán Việt: Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu. Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch thơ của Tản Đà Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

giai đoạn lịch sử cùng các nhà thơ nổi tiếng thời Đường Trung Quốc

Lý Bạch (701 – 762), tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Ông sinh ra tại Lũng Tây, Cam Túc. Có thể nói Lý Bạch là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Quốc nói chung.

Suốt cuộc đời, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca. Người đã mở ra một giai đoạn phát triển vượt bậc của thơ Đường. Từ khi còn trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp riêng. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thơ văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa.

Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên, hay Thi Hiệp. Giới thi nhân lúc bấy giờ rất kính nể tài uống rượu ngắm trăng làm thơ của ông. Còn gọi ông là Tửu Tiên, hay Trích Tiên Nhân.

Đỗ Phủ (712 – 770), tự là Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng dã lão, Đỗ Lăng dã khách hay Đỗ Lăng bổ y. Ông là người Tương Dương, cũng là một nhà thơ nổi bật thời kỳ Đường. Cùng với Lý Bạch, ông cũng được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Tài năng của ông tuyệt vời và đức độ cao thượng nên được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử và Thi Thánh.

Cả cuộc đời mình, ông luôn muốn vì nước vì dân nhưng ông không thực hiện được điều này do loạn An Lộc Sơn năm 755. 15 năm cuộc đời ông là khoảng thời gian đầy biến động, có thời điểm ngắn ông làm quan nhưng vẫn sống trong đau khổ và bệnh tật. Có tin đồn ông mất trên một con thuyền nát ngoài xa.

Bạch Cư Dị (772 – 846), biểu tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn cư sĩ, Tùy ngâm tiên sinh hay Quảng Đại giáo hóa chủ. Ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Ông là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thơ ca Trung Quốc. Với một số người yêu thơ ca thì thơ của ông chỉ xếp sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.

Thơ của ông có sức ảnh hưởng vô cùng lớn, không chỉ được tuyên truyền trong dân gian mà còn lan sang tận các nước ngoài.