Mĩ Thuật 7 Bài 5 Bìa Sách Với Di Sản Kiến Trúc Việt Nam

Mĩ Thuật 7 Bài 5 Bìa Sách Với Di Sản Kiến Trúc Việt Nam

Khu di tích này được người Pháp tình cờ phát hiện vào năm 1885. Sau đó, nhiều học giả quốc tế đã đến Mỹ Sơn để khảo sát và nghiên cứu. Năm 1904, những công trình nghiên cứu đầu tiên về bi ký và kiến trúc tại Mỹ Sơn đã được công bố trong kỷ yếu của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (B.E.F.E.O). Dựa trên kết quả nghiên cứu, hầu hết các nhà khoa học đều khẳng định, đa phần đền tháp lớn ở Mỹ Sơn đều được xây dựng để thờ thần Shiva. Tuy nhiên, cũng có ý kiến lại cho rằng, ban đầu vị thần chính của Mỹ Sơn chỉ mang tính chất địa phương (miền Bắc Chămpa), phải đến thế kỷ XI, vị thần chủ ở Mỹ Sơn, với tên gọi Srisana-Bhadresvara, mới trở thành thần chủ của toàn Vương quốc Chămpa…

Khu di tích này được người Pháp tình cờ phát hiện vào năm 1885. Sau đó, nhiều học giả quốc tế đã đến Mỹ Sơn để khảo sát và nghiên cứu. Năm 1904, những công trình nghiên cứu đầu tiên về bi ký và kiến trúc tại Mỹ Sơn đã được công bố trong kỷ yếu của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (B.E.F.E.O). Dựa trên kết quả nghiên cứu, hầu hết các nhà khoa học đều khẳng định, đa phần đền tháp lớn ở Mỹ Sơn đều được xây dựng để thờ thần Shiva. Tuy nhiên, cũng có ý kiến lại cho rằng, ban đầu vị thần chính của Mỹ Sơn chỉ mang tính chất địa phương (miền Bắc Chămpa), phải đến thế kỷ XI, vị thần chủ ở Mỹ Sơn, với tên gọi Srisana-Bhadresvara, mới trở thành thần chủ của toàn Vương quốc Chămpa…

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Phố Hiến

Phố Hiến là một thương cảng - đô thị phồn hoa, nổi tiếng của Việt Nam vào thế kỷ XVII - XVIII, trải dài theo tả ngạn sông Hồng, được ví như “tiểu Tràng An” vì thế mà có câu: "thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến". Trải qua thời gian, hệ thống quần thể di tích lịch sử văn hoá vẫn còn hiện hữu và các lễ hội văn hoá truyền thống vẫn được nhân dân gìn giữ, tạo nên những nét văn hóa phong phú, đa dạng, đặc sắc trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa của dân tộc ta. Phố Hiến gồm 16 di tích có giá trị tiêu biểu về văn hóa, lịch sử, kiến trúc, điêu khắc, mỹ thuật... thuộc các phường Hiến Nam, Lam Sơn, Quang Trung, Hồng Châu, Lê Lợi, xã Hồng Nam, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

1. Văn Miếu Xích Đằng (phường Lam Sơn): dựng từ thời Lê và trùng tu năm Minh Mạng thứ 20 (1839), trên nền của chùa cổ Nguyệt Đường, mang đậm phong cách kiến trúc cung đình Huế, với tổng diện tích gần 6.000m2, gồm: Văn miếu môn, miếu thổ thần, lầu chuông, lầu khánh, tả/hữu vu, tiền tế, trung từ, hậu cung và công trình phụ trợ. Khu nội tự kết cấu kiểu chữ “Tam” gồm tiền tế, trung từ và hậu cung là nơi thờ Khổng Tử, Chu Văn An và các bậc tiên hiền đạo Nho. Ngoài ra, nơi đây còn lưu giữ 9 tấm bia đá ghi danh các khoa bảng tỉnh Hưng Yên.

2. Đền Mây (phường Lam Sơn): thờ Phạm Bạch Hổ (910 - 983) - danh tướng đã từng phù giúp bốn vị anh hùng dân tộc thế kỷ X là Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn. Tương truyền, đền khởi dựng từ thế kỷ thứ X, đến năm 1882 và 1898, được trùng tu, tôn tạo. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Tam” gồm 05 gian tiền tế, 05 gian trung từ và 03 gian hậu cung với các hạng mục và cấu kiện kiến trúc còn tương đối đồng bộ, với nhiều mảng chạm khắc đẹp, tinh xảo mang đậm phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê đan xen Nguyễn.

3. Đền Kim Đằng (phường Lam Sơn): thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trải qua thời gian, đền đã bị hư hại, được trùng tu nhiều lần. Đến năm 1994, địa phương phục dựng lại 05 gian tiền tế trên nền cũ và tu sửa lại hậu cung. Hiện nay, đền có kết cấu hình chữ “Đinh” gồm nghi môn, nhà khách, 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung.

4. Chùa Chuông (phường Hiền Nam): là một trong những “danh lam cổ tích”  trong Khu di tích Phố Hiến. Chùa được được trùng tu vào năm Chính Hoà thứ 23 (1702), Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Hiện nay, Chùa có kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” liên hoàn, cùng “Tứ thuỷ quy đường” mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê đan xen Nguyễn. Khu thờ chính gồm: tiền đường, thượng điện, hai dãy hành lang, gác chuông, gác khánh, nhà Mẫu và nhà Tổ.

5. Đình An Vũ (phường Hiền Nam): thờ Cao Sơn Đại Vương (theo truyền thuyết là em họ Tản Viên), có công giúp Vua Hùng chống giặc. Đình xây dựng vào thời Cảnh Hưng thứ 2 (1741), được trùng tu năm Bảo Đại thứ 4 (1929). Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, diện tích khoảng 3.135m2, gồm: nghi môn, đại bái, hậu cung. Các cấu kiện kiến trúc được chạm, trang trí nhiều đề tài: lá hóa rồng, lá lật, đao lửa... mang đậm phong cách mỹ thuật thời Hậu Lê.

6. Đền Nam Hoà (phường Hiến Nam): thờ ba vị thần là Đức Thiên Quan Đại vương, Đức Thổ Địa Long thần và Đức Thuỷ Phủ Động đình quân tôn thần. Đền được khởi dựng thời Nguyễn. Trải qua thời gian và lịch sử, đền bị phá bỏ nhiều hạng mục. Sau đó, chính quyền và nhân dân địa phương đã tiến hành phục dựng lại trên nền hậu cung trước kia. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Nhất”, gồm 03 gian, bốn mái, theo phong cách kiến trúc truyền thống.

7. Đền Trần (phường Quang Trung): gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - người anh hùng dân tộc, được nhân dân tôn là “Đức Thánh Trần”, “Đức Thánh Cha”. Đền được khởi dựng từ sớm, đại trùng tu vào năm Tự Đức thứ 16 (1863). Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Tam” gồm tiền tế, trung từ và hậu cung.

8. Đền Mẫu (phường Quang Trung): được khởi dựng từ đời vua Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo thứ nhất (1279); năm Thành Thái thứ 8 (1896) được đại trùng tu như hiện nay, gồm: nghi môn, đại bái, cung đệ Nhất, cung đệ Nhị, cung đệ Tam, hậu cung, phủ Đông, phủ Tây và hai dãy giải vũ. Đền còn lưu giữ nhiều hiện vật, đồ thờ quý như: long sàng, long kỷ, kiệu võng, bát bửu, châm thư, hoành phi, câu đối, tượng, phù điêu, … mang đậm dấu ấn thời Lê - Nguyễn. Đặc biệt, đền hiện còn 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn

9. Chùa Phố (phường Quang Trung): trùng tu, tôn tạo vào cuối thời Lê, đến đầu thế kỷ XX, Tổng đốc Thái Bình cho tu bổ lớn với mong muốn nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo của tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, chùa gồm các hạng mục: tam quan, tiền đường, thiêu hương và thượng điện, được làm kiểu “trùng thiềm điệp ốc” liên hoàn với nhau. Ngoài ra còn có nhà Mẫu, nhà bia, khu tăng xá.

10. Đền Thiên Hậu (phường Quang Trung): thờ thần Hàng hải (bà Lâm Tức Mặc) - bảo trợ của ngư phủ và người đi biển. Đền do người Phúc Kiến (Trung Hoa) dựng lên vào thế kỷ XVI - XVII, đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu “Nội tự ngoại tế” gồm: tam quan trong, thiêu hương, hậu cung, điện Mẫu cùng hai dãy giải vũ. Trang trí trên kiến trúc mô tả các tích cổ của Trung Quốc như: Tam quốc, Tây Du ký, cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông… được bảo lưu gần như nguyên vẹn đến ngày nay.

11. Võ Miếu (phường Quang Trung): do người Hoa xây dựng từ thời Lê Cảnh Hưng (1740) thờ Quan Công thời Tam Quốc, được trùng tu tôn tạo lớn vào thời Thành Thái (1898). Hiện nay, Võ Miếu có diện tích 612,8m2, kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” mang phong cách Việt pha lẫn kiến trúc Phúc Kiến (Trung Quốc), gồm: tam quan, sân, giải vũ, tiền tế, tòa thiêu hương, hậu cung.

12. Đền Bà Chúa Kho (phường Lam Sơn): thờ bà Lê Bạch N­ương- một phụ nữ trung quân ái quốc thời Lê, ngư­ời đ­ược triều đình phân công phụ trách kho ngân khố tại Vĩnh Ty Đồn (nay thuộc thành phố H­ưng Yên). Đền đ­ược xây dựng từ thế kỷ XVII đời Lê Hy Tông (1676 - 1682) và được trùng tu, tôn tạo vào thời Nguyễn. Hiện nay, Đền Bà có khuôn viên rộng 543m2, gồm: tiền tế và hậu cung, các hạng mục tương đối đồng bộ với nhiều mảng chạm khắc và hiện vật có giá trị cao.

13. Đình - chùa Hiến (phường Hồng Châu)

- Đình Hiến: được khởi dựng từ sớm, trùng tu lớn vào các thời Lê - Nguyễn. Hiện nay, đình có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Đại bái và Hậu cung. Các mảng chạm khắc được tập trung tại Đại bái với các đề tài tứ linh, tứ quý… mang dấu ấn mỹ thuật thời Lê - Nguyễn đan xen

- Chùa Hiến: khởi dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần, trùng tu lớn năm 1892 niên hiệu Thành Thái. Hiện nay, chùa có kiến trúc kiểu “Nội công ngoại quốc” gồm tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hai dãy hành lang, hậu điện, nhà Tổ, nhà Mẫu... Tại sân chùa có cây nhãn Tổ nổi tiếng, cùng một số hiện vật quý như: tấm bia đá niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 7 (1625), 01 bia đá niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709)…

14. Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung (phường Hồng Châu): là nơi hội họp của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa sang buôn bán ở Phố Hiến thế kỷ XVI - XVII, đồng thời là nơi thờ tam Thánh của người Hoa (Thần Thái Y, Thần Hoa Quang và Thần Nông). Thiên Hậu Cung là nơi thờ bà Lâm Tức Mặc - vị thần Hàng hải của người Phúc Kiến.

Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu Cung được dựng vào thế kỷ XVI (1590) do 14 dòng họ người Hoa quyên góp để xây dựng nên. Ban đầu Đông Đô Quảng Hội có kiến trúc kiểu chữ “Nhị” gồm 03 gian Hội quán và 03 gian hậu cung còn Thiên Hậu cung gồm 3 gian Tiền tế và 3 gian hậu cung. Sau đó, đến thế kỷ XIX - XX, Đông Đô Quảng Hội - Thiên Hậu cung được trùng tu, tôn tạo lại. Hiện nay, Đông Đô Quảng Hội – Thiên Hậu Cung kiến trúc kiểu chữ “Công”, mang đậm phong cách kiến trúc Trung Hoa đan xen với kiến trúc Việt.

15. Chùa Nễ Châu (xã Hồng Nam): được khởi dựng vào thời Tiền Lê, lúc đó ngôi chùa chỉ là 3 gian nhà lá. Đến thời Hậu Lê, chùa được đại trùng tu. Hiện nay, Chùa Nễ Châu, có kết cấu kiểu "Nội công ngoại quốc" gồm: tam quan, tiền đường, thượng điện và hai dãy hành lang..., các hạng mục kiến trúc mang đậm phong cách đan xen thời Lê - đan xen.

16. Đền Cửu Thiên Huyền Nữ (phường Lê Lợi): thờ Đức Cửu Thiên Huyền Nữ - người giúp nhân dân trong lúc hoạn nạn, nguy nan nên được tôn làm thánh. Đền được khởi dựng từ sớm, trải qua nhiều lần trùng tu, lần gần đây nhất là đời vua Bảo Đại (1937). Hiện nay, đền có kiến trúc kiểu chữ “Công”, gồm: tiền tế, ống muống và hậu cung.

Khu di tích Phố Hiến có nhiều hiện vật tiêu biểu, phân bố ở tất cả các di tích, bao gồm: chuông, khánh, bia đá, hoành phi, kiệu bát cống, ngai, bài vị, sắc phong, tượng phật...

Phố Hiến trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế - văn hoá với nhiều mối giao lưu quốc tế. Phố Hiến còn mang diện mạo của một đô thị kinh tế, kết cấu gồm: bến cảng sông, tập hợp chợ, khu phường phố và hai thương điếm phương Tây (Hà Lan và Anh). Mạch máu giao thương của Phố Hiến là sông Xích Đằng - đoạn sông Nhị Hà chảy sát Phố Hiến. Đây là nơi trung chuyển và là điểm tụ hội của những đoạn đường sông từ biển Đông vào tới kinh thành Thăng Long. Cùng với hoạt động thương mại, người nước ngoài đã mang đến Phố Hiến những phong tục tập quán, kiến trúc mang đậm bản sắc văn hoá riêng của từng quốc gia, từng dân tộc. Điều này đã hình thành nên nét văn hoá đặc sắc riêng của đất và người Phố Hiến, vừa là điểm hội tụ, vừa là điểm giao thoa giữa các nền văn hoá. Mặc dù bị suy tàn, nhưng những dấu tích còn lại của Phố Hiến cho đến nay vẫn là một quần thể di tích có giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử. Đây là nguồn sử liệu vô cùng quý báu, là bằng chứng chân thực nhất minh chứng cho sự hình thành và phát triển của Phố Hiến xưa (nay là thành phố Hưng Yên), là cơ sở để các nhà khoa học nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, kiến trúc, mỹ thuật, dân tộc, xã hội của Việt Nam nói chung và Phố Hiến nói riêng.

Nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị lịch sử văn hoá của cha ông để lại, từ nhiều năm nay, thành phố Hưng Yên đã khôi phục và tổ chức các lễ hội văn hoá vùng Phố Hiến, thường được diễn ra vào tháng Ba Âm lịch. Lễ hội gồm: lễ dâng hương, lễ cầu an, lễ rước kiệu của các di tích, cùng với đó là nhiều hoạt động phong phú, đặc sắc như văn hoá ẩm thực, thi cầu kiều, kéo co, chọi gà, cờ tướng, bơi chải, đàn và hát dân ca, hội thi thả diều sáo, trưng bày và giới thiệu sản phẩm đặc trưng vùng Phố Hiến, trưng bày cổ vật tại Bảo tàng tỉnh...

Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, Khu di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Phố Hiến (thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./.

Khắc Đoài (Theo Hồ sơ di tích, Cục Di sản văn hóa)

Hãy nêu sơ lược về mĩ thuật Việt Nam thời kì cổ đại.

Việt Nam được xem là 1 trong những cái nôi của loài người, có sự phát triển liên tục qua nhiều thế kỉ.

+ Thời kì đồ đá: (xã hội nguyên thủy)

- Hình khắc mặt người trên vách hang Đồng Nội ( Hòa Bình ): là dấu ấn đầu tiên của nền mĩ thuật nguyên thủy Việt Nam. ( 3 Hình khắc trên vách đá sâu 2cm, đường nét dứt khoát . Mặt người được diễn tả với góc nhìn chính diện, có sừng cong ra hai bên như hóa trang, một vật tổ mà người nguyên thủy thờ cúng. Người nam ở giữa, khuôn mặt to vuông chữ điền, long mày rậm. Người nữ mặt nhỏ đường nét bầu bĩnh hơn hình nam và không có chân mày..)

- Hình mặt người trên đá cuội ở Na-ca ( Thái Nguyên )

- Các công cụ sản xuất bằng đá tìm thấy ở Phú Thọ, Hòa Bình..

+ Thời kì đồ đồng : sự xuất hiện của đồng và sau đó là sắt, Việt Nam cơ bản từ hình thái xã hội nguyên thủy sang xã hội văn minh.

- Các công cụ sản xuất bằng đồng được chạm khắc, tạo dáng và trang trí kết hợp nhiều kiểu hoa văn, phổ biến là song nước, thừng bện và hình chữ S…

- Nhiều đồ trang sức và tượng nghệ thuật ( tượng cổ nhất được tìm thấy là tượng người đàn ông bằng đá ở Vân Điển, Hà Nội ).

- Trống đồng Đông Sơn được xem là trống đồng đẹp nhất tạo dáng và nghệ thuật chạm khắc bố cục trống là những hình tròn đồng tâm bao lấy ngôi sao nhiều cánh ở giữa. Hình ảnh con người chiếm vị trí chủ đạo trong thế giới muôn loài ( giả gạo, chèo thuyền, chiến binh, vũ nữ..) thống nhất chuyển động ngược chiều kim đồng hồ.

Kể tên một số hiện vật mĩ thuật của thời kì trên

-       Thời kì đồ đá : rìu, chày

-       Thời kì đồ đồng : dao, giáo, mũi lao, thạp…

Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập

- GV hướng dẫn HS quan sát một số hoa văn trang trí trên di sản mĩ thuật thế giới thời kì trung đại SGK tr.9, 10.

- GV chia HS thành các nhóm, yêu cầu HS thảo luận và trả lời câu hỏi:

+ Di sản mĩ thuật thời kì này thường được trang trí bằng những hoa văn nào?

+ Nhận xét về thiết kế hình dạng, hoa văn trang trí trên di sản mĩ thuật thời kì trung đại ở mỗi nền văn hóa mà em biết.

+ Công năng của di sản mĩ thuật này là gì?

+ Tại sao cần quan tâm đến nghệ thuật trang trí trong những di sản mĩ thuật thời kì trung đại trên thế giới?

- GV cho HS quan sát thêm một số di sản mĩ thuật trên thế giới thời kì trung đại:

Một chiếc trong cặp bình lớn được sản xuất bởi nhà máy gốm sứ Chelsea ở Anh TK XVIII

Bình gốm Pháp dưới thời vua Louis XIV

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập

- HS quan sát Hình 1-6 SGK tr.9,10, hình ảnh minh họa của GV, thảo luận theo nhóm và trả lời câu hỏi.

- GV hướng dẫn, theo dõi, hỗ trợ HS (nếu cần thiết).

Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận

- Đại diện các nhóm trả lời câu hỏi về nghệ thuật trang trí thời kì trung đại trên thế giới.

- GV mời nhóm khác nhận xét, bổ sung.

Bước 4: Đánh giá kết quả, thực hiện nhiệm vụ học tập

GV đánh giá, nhận xét, chuẩn kiến thức, chuyển sang nội dung mới.

- Di sản mĩ thuật thời kì này thường được trang trí bằng những hoa văn:

+ Hình 1: Hoa văn hình chim công.

+ Hình 3: Hoa văn hình lá, con thú.

+ Hình 5: Hoa văn hoa, lá, con người.

+ Hình 6: Hoa văn hình con người.

- Nhận xét về thiết kế hình dạng, hoa văn trang trí trên di sản mĩ thuật thời kì trung đại:

+ Hoa văn sử dụng trong trang trí thời kì trung đại là hình hoa, lá, chim, thú, con người...

+ Hoa văn được tạo nên từ những yếu tố tạo hình cơ bản như đường nét, màu sắc.

+ Hoa văn được sắp xếp theo nguyên lí thị giác như tương phản, cân bằng, nhấn mạnh, chuyển động, tỉ lệ, nhịp điệu... nhằm tạo nên những sản phẩm có tính thẩm mĩ, hợp lí khi sử dụng.

- Công năng của di sản mĩ thuật: trang sức, sản phẩm trang trí,…

- Cần quan tâm đến nghệ thuật trang trí trong những di sản mĩ thuật thời kì trung đại trên thế giới vì :

+ Có thể khai thác, vận dụng được đường nét, hoa văn, họa tiết trong thiết kế SPMT ứng dụng.

+ Thể hiện sự trân trọng, kế thừa, phát huy những giá trị thẩm mĩ trong di sản mĩ thuật ứng dụng thời kì trung đại trên thế giới.